Tranh
chấp đất đai trong thực tế thì muôn hình vạn trạng ít có những trường hợp hoàn
toàn giống nhau, tranh chấp về đất ao, vườn, rừng, đất ở, đất làm đường đi lối
lại trong hoặc giữa các hộ gia đình với nhau; tranh chấp đất đai giữa hộ gia
đình với cơ quan nhà nước, với đơn vị tập thể, với các tổ chức, Doanh nghiệp sử
dụng đất… Vì sự đa dạng, phức tạp trong tranh chấp đất đai mà pháp luật không
thể điều chỉnh hết được, nên nhà nước luôn ưu tiên, khuyến khích giải quyết
tranh chấp đất đai bằng biện pháp hòa giải. Luật Đất đai năm 2013 có Điều 202
với 5 khoản quy định cụ thể về hòa giải tranh chấp đất đai khi mà việc hòa giải
tranh chấp không thành.
Từ
thực tiễn giải quyết đơn thư khiếu nại đã nảy sinh một vấn đề cho người giải
quyết khi mà giữa Luật đất đai và Luật khiếu nại chưa có sự tương thích, thống
nhất.
Xin
dẫn cụ thể như sau:
Điểm
a khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Trường hợp tanh chấp giữa
các hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch UBND cấp huyện
giải quyết…”, trường hợp này áp dụng thẩm quyền giải quyết của chính quyền (cấp
huyện) khi mà UBND cấp xã thực hiện hòa giải không thành.
Trong
khi hoạt động hòa giải ở UBND cấp xã được thực hiện bằng các hành vi hành chính
của chính quyền, công chức cấp xã như gặp gỡ, đối thoại, vận động, ghi lại bằng
biên bản… Các hành vi hành chính này của nhà nước không được một trong hai bên
chấp nhận và phát sinh khiếu nại. Khi hành vi hành chính của công chức Nhà
nước, cơ quan Nhà nước bị khiếu nại thì phải áp dụng Điều 1 và Khoản 1 Điều 2
của Luật Khiếu nại năm 2011 để xem xét, cụ thể là: Công dân đề nghị cấp có thẩm
quyền, người có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành
chính của mình… Vụ việc nếu được xem xét lại được coi là giải quyết khiếu nại
lần đầu.
Quy
định trên của Luật Khiếu nại được hiểu gọn lại là: Quyết định hành chính, hành
vi hành chính của ai bị khiếu nại thì người đó phải giải quyết lần đầu. Trong
trường hợp tranh chấp đất đai do UBND cấp xã tổ chức thực hiện hòa giải có biên
bản hòa giải không thành mà bị khiếu nại thì áp dụng Điều 17 Luật Khiếu nại năm
2011 để xác định thẩm quyền giải quyết cụ thể như sau: “Chủ tịch UBND xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã); thủ trưởng cơ quan thuộc UBND
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính của mình của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp”.
Thực
tế ở Lào Cai hiện nay đã có một số vụ tranh chấp đất đai giữa các hộ gia đình,
cá nhân với nhau, các vụ tranh chấp đất đai giữa các hộ gia đình, cá nhân với
nhau, các vụ tranh chấp này đều được UBND cấp xã tổ chức hòa giải, có đầy đủ
thủ tục theo quy định. Một trong các bên tranh chấp không đồng ý và khiếu nại
đến UBND cấp huyện. Các vụ việc này đều được UBND cấp huyện thụ lý và giải
quyết khiếu nại lần đầu, việc UBND cấp huyện giải quyết khiếu nại về tranh chấp
đất đai chỉ đúng trong trường hợp “tranh chấp đất đai mà đương sự không có giấy
chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật
này..”
Mặc
dù tại Khoản 5 Điều 3 đã quy định: “Trường hợp Luật khác có quy định khác về
khiếu nại và giải quyết khiếu nại thì áp dụng theo quy định của Luật đó”. Tuy
nhiên việc xác định hai bên tranh chấp có một trong các loại giấy tờ quy định
tại Điều 100 Luật Đất đai là rất rộng và phức tạp. Mặt khác quy định có tính
khái niệm về nguyên tắc xác định đối tượng và thẩm quyền tại Khoản 1 Điều 2 và Điều
17 Luật Khiếu nại nêu rõ rằng: Hành vi hành chính, quyết định hành chính của ai
bị khiếu nại thì người đó phải có trách nhiệm giải quyết lần đầu.
Đối
chiếu việc giải quyết tranh chấp đất như vấn đề nêu trên được hiểu là: UBND cấp
xã có hành vi hành chính, quyết định hành chính (giải quyết tranh chấp đất đai
qua hòa giải không thành) bị khiếu nại thì tự họ (cấp xã) không được “xem xét
lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình”. Vô hình chung là bị
mất thẩm quyền và trách nhiệm được quy định tại Điều 17 Luật Khiếu nại năm
2011./.